Đáp ứng nhu cầu phát triển của thực tiễn hiện nay, hoạt động bảo hộ sở hữu trí tuệ tại Việt Nam luôn có những bước phát triển mới. Nhiều năm qua, nhà nước liên tục hoàn chỉnh và ban hành hệ thống văn bản quy phạm pháp luật; từng bước thiết lập và đổi mới hệ thống cơ quan quản lý nhà nước phù hợp để thực hiện các quy định của pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Ông Hoàng Văn Tân - Phó Cục trưởng Cục Sở hữu trí tuệ - cho biết: số đơn đăng ký sở hữu công nghiệp của người Việt Nam, đặc biệt là đơn đăng ký sáng chế và đăng ký nhãn hiệu liên tục tăng. Cụ thể, số đơn đăng ký sáng chế của người Việt Nam là 53 đơn (năm 1989) lên 78 đơn (năm 2003) và 443 (năm 2013); bằng độc quyền sáng chế được cấp là 11 bằng (năm 1990) lên 17 bằng (năm 2003) và 59 bằng (năm 2013); đơn đăng ký giải pháp hữu ích là 39 đơn (năm 1990) lên 76 đơn (năm 2003) và 227 đơn (năm 2013); bằng độc quyền giải pháp hữu ích tăng từ 23 bằng (năm 1990) lên 28 bằng (năm 2003) và 74 bằng (năm 2013). Riêng năm 2013, người Việt Nam đăng ký bảo hộ sở hữu trí tuệ ở nước ngoài thống kê được là 115 đơn (trong đó có 5 đơn đăng ký sáng chế và 102 đơn đăng ký nhãn hiệu...).
Ông Hannu Kokko:
Trong tương lai, để thúc đẩy đổi mới sáng tạo và bảo hộ sở hữu trí tuệ, cần gắn kết hơn nữa giữa DN, trường học, các tổ chức nghiên cứu và nhà nước.
Bên cạnh đó, số vụ xử lý xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ. cũng tăng lên, thể hiện sự vào cuộc chủ động của các cơ quan chức năng cũng như sự tích cực của bản thân chủ sở hữu trí tuệ. Tuy nhiên, ông Tân cũng thừa nhận, điểm yếu của chúng ta là việc khai thác các quyền sở hữu trí tuệ, quyền được bảo hộ của các sáng chế vẫn chưa được chú trọng.
Theo ông Hannu Kokko, cố vấn trưởng của Chương trình “Đổi mới - Sáng tạo” do Chính phủ Việt Nam và Phần Lan phối hợp thực hiện, ở những nước phát triển như Phần Lan, đầu tư của nhà nước cho đổi mới sáng tạo lên tới 2 tỷ euro/năm, trong đó, 30% do quốc gia đầu tư, 70% còn lại là từ khu vực tư nhân. Điều này cho thấy vai trò quan trọng của việc xã hội hóa trong việc khuyến khích đổi mới sáng tạo.
Bên cạnh đó, Việt Nam vẫn chưa có sự phối hợp hiệu quả giữa doanh nghiệp trường học cùng các tổ chức nghiên cứu, và nhà nước. Đặc biệt là sự phối hợp liên kết giữa doanh nghiệp và các trường đại học, các tổ chức nghiên cứu còn rất mờ nhạt. Một bộ phận không nhỏ các doanh nghiệp Việt Nam đã có ý thức nhằm đổi mới sáng tạo, nhưng họ chưa có được sự hợp tác, hỗ trợ cần thiết từ các trường đại học và cơ sở nghiên cứu. Trong khi đó, nhiều trường đại học đã có những nghiên cứu mang tính ứng dụng nhưng lại không có địa chỉ sử dụng cụ thể.